Vấn đề thừa kế luôn có vị trí quan trọng trong bất kỳ giai đoạn xã hội nào bởi lẽ đây cũng chính là hình thức pháp lý để bảo vệ quyền công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. Về mặt tâm lý, cá nhân không chỉ muốn mình có quyền năng đối với khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn muốn chi phối nó nay cả khi đã chết. Vì vậy, Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản đó thông qua việc lập Di chúc. Pháp luật quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho nhũng người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc, khi họ chết tài sản của họ sẽ được để lại cho những ai, tỷ lệ bao nhiêu,…Nhưng thế nào là Di chúc hợp pháp theo quy định của pháp luật và cần làm những công việc liên quan gì thì không phải ai cũng biết.
Tại bài viết này, Bi Law sẽ giải đáp những vướng mắc đó như sau:
Theo Điều 624 Bộ luật dân sự năm 2015: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Di chúc có thể bằng văn bản hoặc di chúc miệng. Di chúc phải được lập thành văn bản tiếng Việt có thể viết tay hoặc đánh máy in trên giấy nhìn được, đọc được. Nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc bằng văn bản bao gồm 04 loại: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có công chứng; Di chúc bằng văn bản có chứng thực. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ.
Di chúc thế nào được coi như là hợp pháp?
Căn cứ tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thứ nhất, Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
– Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
– Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Thứ hai, Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Thứ ba, Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Thứ tư, Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Thứ năm, Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Tóm lại, để Di chúc có tính hợp pháp và được thực hiện thì cần phải tuân thủ những yêu cầu mà pháp luật quy định. Di chúc được xem xét là một giao dịch dân sự đơn phương. Một giao dịch dân sự nếu muốn được thừa nhận là có hiệu lực pháp luật thì phải đáp ứng bốn Điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự nói chung theo quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015. Mà Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật khi người lập di chúc chết, vì thế giao dịch di sản này có tính chất rất đặc biệt. Nếu giao dịch dân sự khác có thể ủy quyền cho một người khác thực hiện hoặc có thể do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện thay thì việc lập di chúc không thể chỉ định người nào đó lập thay di chúc cho một người khác. Vì thế, Điều 630 có quy định về các điều kiện bắt buộc người lập di chúc phải tuân thủ (Điều kiện về nội dung, về năng lực chủ thể, về ý chí tự nguyện, về thế chất hoặc không biết chữ).
Về nguyên tắc, di chúc phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm người có tài sản (người để lại di sản) chết hoặc khi quyết định Tòa án tuyên bố người đó đã chết có hiệu lực pháp luật. Chỉ kể từ thời điểm đó, quan hệ thừa kế mới phát sinh và những người thừa kế mới có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Khi người để lại di sản chưa chết, di chúc đã được lập nhưng chưa phát sinh hiệu lực, các định đoạt về tài sản của người đó chưa có hiệu lực thực hiện trên thực tế, chưa phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể liên quan và người đó có quyền hủy bỏ, thay đổi nội dung di chúc theo ý chỉ của mình.
Đối với nhiều người không am hiểu về việc lập di chúc thì có thể nhờ đến sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm. Với đội ngũ chuyên viên giỏi về di chúc, BiLaw luôn sẵn sàng thực hiện những như tư vấn, hỗ trợ di chúc,…